Sự kiện trọng đại
Hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc vừa ra Tuyên bố chung hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc, xin Thứ trưởng cho biết thêm thông tin về sự kiện này?
- Từ ngày 28 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, tại Hà Nội đã diễn ra cuộc gặp đặc biệt giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ. Tại cuộc gặp, hai bên đã đạt được một số nhận thức chung rất quan trọng. Đặc biệt, hai bên đã thống nhất biện pháp giải quyết cả gói đối với hai khu vực thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân. Tại thác Bản Giốc, thác cao và là thác phụ hoàn toàn thuộc Việt Nam, với thác chính hai bên thoả thuận đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa cuả mặt thác chính, sau đó tiếp tục đi theo dòng chảy chính của sông Quây Sơn.
|
Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam Vũ Dũng và người đồng nhiệm Trung Quốc Vũ Đại Vỹ ký biên bản lúc 2h5’ ngày 1/1/2009. Ảnh: NHT |
Tại cửa sông Bắc Luân, đường biên giới bắt đầu từ thượng lưu bãi Tục Lãm đến điểm đầu của đường phân định Vịnh Bắc Bộ. Với việc hoàn thành phân giới khu vực cửa sông này, Việt Nam và Trung Quốc đã xác định xong đường biên giới hoàn chỉnh dài hơn 1400km từ Tây sang Đông, nối tiếp với đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ. Việc giải quyết hai khu vực này là phù hợp với luật pháp quốc tế, với Hiệp ước 1999 và về cơ bản đã đáp ứng được quan tâm của cả hai bên.
Hai bên thoả thuận không xây dựng các công trình nhân tạo tại khu vực thác Bản Giốc để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái ở khu vực này, đồng thời nhất trí xem xét hợp tác khai thác tiềm năng du lịch và sẽ ký Thoả thuận cấp Chính phủ về vấn đề này.
Hai bên cũng thoả thuận sẽ thiết lập khu vực tự do đi lại cho tàu thuyền của cư dân biên giới tại khu vực cửa sông Bắc Luân và ký một thoả thuận cấp Chính phủ quy định các nội dung cụ thể liên quan. Hai bên cũng đồng ý sẽ tổ chức lễ mừng công hoàn thành PGCM tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn, Việt Nam) và Hữu Nghị Quan (Quảng Tây, Trung Quốc) vào thời gian thích hợp trong năm 2009.
Lúc 19h ngày 31/12/2008 hai bên đã ra Tuyên bố chung về viêc hoàn thành PGCM. Sau đó, hai bên đã ký biên bản cuộc họp ghi lại toàn bộ các kết quả này cũng như các công việc liên quan cần triển khai trong thời gian tới.
Tuyên bố chung ngày 31/12/2008 đã khẳng định: “việc hoàn thành toàn bộ công tác PGCM là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc”. Đây là thành tích chung của các lực lượng PGCM, là thắng lợi chung của tình hữu nghị Việt-Trung và là biểu hiện sinh động của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả thuận.
Thứ trưởng có thể giới thiệu vài nét về quá trình và kết quả của công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc?
Theo quy định tại Điều 6 của Hiệp ước 1999, năm 2000 hai Bên đã thành lập Ủy ban Liên hợp phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc để thực hiện công tác PGCM. Tiếp đó Uỷ ban Liên hợp PGCM đã thành lập Nhóm chuyên gia kỹ thuật và 12 Nhóm liên hợp PGCM trực thuộc để triển khai công tác PGCM trên thực địa tại 12 đoạn biên giới tương ứng.
PGCM là công việc hết sức mới mẻ đối với hầu hết các bộ-ngành, địa phương của ta. Sau 2 năm chuẩn bị, tháng 12/2001, ta và Trung Quốc cắm cặp cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu quốc tế Móng Cái (Quảng Ninh) và Đông Hưng (Quảng Tây). Từ tháng 10/2002, hai Bên đồng loạt tiến hành PGCM trên toàn tuyến biên giới. Tuy nhiên do những khó khăn ban đầu như đã nói ở trên, trong hai năm 2003 và 2004, hai Bên chỉ cắm được 89 cột mốc. Để đẩy nhanh tiến độ PGCM, hai Bên đồng ý áp dụng nguyên tắc “dễ trước, khó sau” nên trong hai năm 2005-2006 đã đạt được tiến bộ đáng kể. Đến đầu năm 2007, hai bên đã PGCM được gần 70% đường biên giới.
Tuy vậy, sang năm 2007, tốc độ PGCM chậm hẳn lại do các khu vực tồn đọng đều là các khu vực nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời, khó giải quyết. Có tháng, có Nhóm PGCM không cắm được cột mốc nào. Trước tình hình đó, ta và Trung Quốc đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ, trong đó, quan trọng nhất là biện pháp giải quyết “cả gói”, tức là chia các khu vực thành một số gói khác nhau có chung tính chất như “gói cửa khẩu”, “gói mốc cũ thời Pháp – Thanh”, “gói Cửa sông Bắc Luân và Thác Bản Giốc” để giải quyết theo một số nguyên tắc nhất định v.v…; các gói này có quan hệ tương tác lẫn nhau. Việc giải quyết “cả gói” được tiến hành trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hợp lý, hợp tình, đại để cân bằng về lợi ích, hai Bên có thể chấp nhận được và cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng đến đời sống của cư dân biên giới.
Đến nay, sau hơn 7 năm bền bỉ phấn đấu, hai Bên đã tiến hành 13 vòng đàm phán chính thức cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ, rất nhiều cuộc gặp hai Trưởng đoàn, 31 vòng đàm phán cấp Chủ tịch Ủy ban liên hợp PGCM. Càng về cuối đàm phán càng khó khăn, phức tạp. Riêng năm 2008, hai bên đã tiến hành 11 vòng đàm phán cấp Chủ tịch, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất 23 ngày, phiên họp dài nhất tiến hành liên tục suốt hơn 30 giờ liền.
Kết quả là, hai bên đã phân giới xong trên thực địa toàn tuyến biên giới dài khoảng 1400 km (trong đó có 344 km đường biên giới đi theo 21 sông, suối chính); cắm được gần 2000 cột mốc trong đó có trên 1500 cột mốc chính và trên 400 cột mốc phụ. Hệ thống mốc giới này đã được đánh dấu, ghi nhận và mô tả phù hợp với địa hình thực tế một cách khách quan, khoa học, chi tiết. Nếu so sánh với đường biên giới của các nước trên thế giới, đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc được đánh giá là có mức độ cột mốc dầy đặc và rõ ràng nhất, được xác định theo phương pháp hiện đại đảm bảo tính trung thực và bền vững lâu dài.
Hy sinh vì sự nghiệp phân giới cắm mốc
Xin Thứ trưởng cho biết có những khó khăn chủ yếu nào trong quá trình phân giới, cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc?
PGCM là công việc song phương, mọi việc đều phải được 2 bên đồng ý và cùng nhau thực hiện. Biên giới Việt-Trung là khu vực có địa hình hiểm trở phức tạp, điều kiện thời tiết khắc nghiệt, nhiều nơi có độ cao trung bình trên 1000m như ở Điện Biên, Lai Châu. Trong 1400 km đường biên thì có tới 344 km là sông suối biên giới với dòng chảy bị biến động liên tục do lũ lụt. Nhiều khu vực biên giới cách xa dân cư, đường xá đi lại hết sức khó khăn.
Nhiệm vụ của những người làm công tác PGCM là phải đến tất cả các nơi có đường biên giới đi qua, cho dù đó là núi non hiểm trở, đèo cao, vực sâu nguy hiểm. Nhiều nhóm PGCM đã phải đi bộ, trèo đèo, lội suối, xuyên rừng 3-4 ngày mới đến đường biên, bất chấp những khó khăn, nguy hiểm về địa hình, thời tiết, bệnh tật, thậm chí có nhiều nơi bom mìn còn sót lại. Có những nhóm đã phải bám trụ hàng chục ngày liên tục ở khu vực đường biên trong điều kiện thường xuyên có giá rét, sương mù và băng tuyết để làm việc. Chính vì vậy, nhiều cán bộ, chiến sỹ đã đổ máu, thậm chí hy sinh cả thân mình cho sự nghiệp PGCM của Tổ Quốc.
Thứ hai, do lịch sử để lại có một số khu vực hai Bên quản lý, canh tác sang nhau hoặc dân cư sinh sống, sử dụng chung nguồn nước, thậm chí có cả những khu vực mồ mả được chôn cất sang lãnh thổ của nhau. Đối với những khu vực này, ta và bạn đã nhất trí giải quyết theo nguyên tắc linh hoạt, hạn chế đến mức thấp nhất tác động đến cuộc sống, sản xuất của người dân vùng biên giới.
Thứ ba, PGCM là đưa đường biên giới từ Hiệp ước ra thực địa. Đây là công việc hết sức khó khăn do lời văn và bản đồ Hiệp ước không phải lúc nào cũng phù hợp với thực địa và ngược lại. Cũng có khi lời văn và bản đồ của chính Hiệp ước cũng không khớp nhau. Trong điều kiện thăng trầm về chính trị, kinh tế, xã hội, cộng với những thiên tai liên tiếp ở mỗi nước, thì điều này là hoàn toàn có thể hiểu được. Ngoài ra, như các bạn đã biết đường biên giới trên bản đồ chỉ là một nét vẽ, nhưng với tỉ lệ 1/50.000 thì một nét vẽ này trên thực địa đã tương đương với khoảng 50m.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như đã nói ở trên, nhưng, các các đồng chí tham gia công tác PGCM của ta, với tinh thần trách nhiệm cao nhất trước nhân dân và đất nước, đã hết sức cố gắng, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ PGCM. Công tác PGCM cũng thường xuyên được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, trực tiếp của Lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước. Đặc biệt, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính phủ ta đã nhiều lần trực tiếp đến một số khu vực biên giới để khảo sát và tìm hiểu, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân thôn bản vùng biên để từ đó có những chỉ đạo hết sức sát sao cho Đoàn đàm phán. Chính phủ đã dành ưu tiên cao cả về nhân lực và tài chính cho công tác PGCM.
Thương lượng quy chế quản lý biên giới mới
Ý nghĩa của sự kiện hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc và công việc cần làm trong thời gian tới?
Tuyên bố chung của hai Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ đã nói tương đối đầy đủ vấn đề này. Tôi chỉ xin nêu thêm mấy điểm:
- Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc, với tư cách là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền đã tự mình hoạch định được đường biên giới trên đất liền giữa hai nước với hệ thống văn bản, bản đồ và mốc quốc giới hoàn chỉnh, hiện đại, có giá trị mãi mãi cho hai quốc gia, dân tộc;
- Thứ hai, việc hoàn thành PGCM sẽ mở ra những cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương có chung biên giới mở rộng giao lưu hợp tác, tăng cường quan hệ kinh tế- thương mại. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy nơi nào đã PGCM, thì tình hình trật tự an ninh biên giới, hợp tác kinh tế- thương mại ở nơi đó đều tốt hẳn lên. Đây là tiền đề vững chắc để xây dựng biên giới Việt – Trung thành đường biên giới mãi mãi hòa bình, hữu nghị và cùng phát triển.
- Thứ ba, hoàn thành PGCM là giải quyết được một vấn đề rất nhạy cảm trong quan hệ Việt-Trung. Tiếp theo việc ký kết Hiệp ước 1999, Hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ 2000, hoàn thành PGCM là việc làm thiết thực từng bước cụ thể hóa mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc trên cơ sở phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, là sự đóng góp thiết thực đối với hòa bình, ổn định và phát triển khu vực.
Trong năm 2009, hai bên sẽ tiếp tục thảo luận nhằm hoàn chỉnh nội dung của Nghị định thư PGCM và các phụ lục kèm theo, bao gồm bản đồ, hồ sơ ghi nhận những kết quả phân giới, cắm mốc mà hai bên đã đạt được trên thực địa trong những năm qua; thương lượng về Quy chế quản lý biên giới mới và Hiệp định quản lý các cửa khẩu quốc tế.
Không thể nhân nhượng
Một số mạng nước ngoài tiếp tục đưa tin thất thiệt rằng Việt Nam đã bị mất đất. Thứ trưởng bình luận gì về ý kiến này?
Tôi đã có nhiều dịp phát biểu về vấn đề này. Hôm nay, tôi xin một lần nữa khẳng định rằng: chủ quyền lãnh thổ là vấn đề hết sức thiêng liêng đối với bất kỳ quốc gia nào, dân tộc nào. Đối với dân tộc Việt Nam thì vấn đề chủ quyền lãnh thổ lại càng thiêng liêng cao cả. Dân tộc ta từ nghìn xưa đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Gần tám thập kỷ qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, đã đi qua những cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, chịu đựng nhiều mất mát, hy sinh to lớn để giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mảnh đất thân yêu này.
Trong đàm phán với Trung Quốc và các nước láng giềng khác cũng như trong quá trình PGCM trên thực địa, chúng ta đều đã thể hiện hết sức rõ ràng lập trường bất di bất dịch, đó là: chủ quyền lãnh thổ là vấn đề mang tính nguyên tắc, không thể nhân nhượng. Như trên tôi đã nói, do lịch sử để lại, có những khu vực quá canh, quá cư, Hai đoàn đàm phán đã nhất trí linh hoạt điều chỉnh trên cơ sở cân bằng lợi ích.
Vì vậy, không thể có chuyện “Việt Nam mất đất”, “cắt đất” cho nước này, nước kia như một số mạng nước ngoài đưa tin. Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau.
Ở đây, tôi xin nêu thêm một số thông tin về kết quả PGCM ở những khu vực mà mọi người quan tâm nhiều nhất:
Về khu vực Thác Bản Giốc: Thác Bản Giốc gồm 2 phần: phần thác phụ và phần thác chính. Phần thác phụ hoàn toàn thuộc phía VN, còn phần thác chính đổ thẳng xuống sông Quây Sơn là sông chung biên giới. Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới sẽ được xác định theo nguyên tắc trung tuyến dòng chảy chính. Tại vòng họp này , ta và Trung Quốc đã thoả thuận đường đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa của mặt thác chính và sau đó dòng chảy chính trên sông Quây Sơn. Ta và Trung Quốc cũng nhất trí sẽ cùng hợp tác để phát triển tiềm năng du lịch, kinh tế tại khu vực thác Bản Giốc.
Về khu vực Hữu nghị quan: Theo các tài liệu lịch sử đang được lưu giữ, Trấn Nam Quan hay còn gọi là Ải Nam Quan đều nằm bên phía Trung Quốc, đường biên giới nằm phía nam Trấn Nam Quan. Theo “Đại Nam Nhất thống chí” , Trấn Nam Quan được xây dựng từ thời nhà Minh; sau đó, đời Nhà Thanh cho tu bổ lại vào năm 1726. Dấu tích lịch sử quan trọng của khu vực cửa khẩu Hữu nghị là mốc 19 cũ do Pháp Thanh cắm năm 1894. Vừa qua ta và Trung Quốc đã tiến hành cắm mốc 1117 trùng với vị trí mốc 19 cũ, đường biên giới đi qua Km số 0, mốc 19 cũ đến điểm cách điểm nối ray hiện tại 148m. Như vậy có thể khẳng định đường biên giới tại cửa khẩu Hữu nghị vừa được PGCM là phù hợp với lịch sử và thực tiễn quản lý ở khu vực này.